Báo Đồng Nai điện tử
En

Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai…

11:10, 23/10/2020

Dân gian có câu: "Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai". Các nhà nghiên cứu cho rằng, từ trước năm 1820 (năm ra đời Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức), người dân Gia Định (mà cũng là miền Nam) đã sử dụng câu này.

Dân gian có câu: “Gạo Cần Đước, nước Đồng Nai”. Các nhà nghiên cứu cho rằng, từ trước năm 1820 (năm ra đời Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức), người dân Gia Định (mà cũng là miền Nam) đã sử dụng câu này.

Một góc sông Đồng Nai. Ảnh minh họa: Vĩnh Huy
Một góc sông Đồng Nai. Ảnh minh họa: Vĩnh Huy

* Nguồn nước mát ngọt

Theo Trịnh Hoài Đức, nước sông Đồng Nai nổi danh mát, sạch, ngon, ngọt, nếu dùng nấu pha trà thì ở Nam bộ không nơi nào sánh bằng. Ở mục Phước Long giang, sách viết: “Tục gọi là sông Đồng Nai, là một sông lớn ở phủ Phước Long, nên lấy tên phủ đặt tên sông (sau phần đông phỏng theo như thế).

Phát nguyên của sông này rất sâu xa, suối vực sâu rộng, xuất phát từ núi Thần Quy chảy ra, do nước đọng trong các núi, muôn hốc thông thương họp lại nên dòng nước mênh mông, chảy xuống hướng đông cho đến Tiểu Giang (sông Bé), xóm Sa Tân (Bến Cát), một hướng chảy về thác đá lởm chởm, nước chảy hung hãn hiểm ác, nên ghe thuyền không lưu thông được; nước thủy triều chỉ lên đến đây là dừng, thuyền buôn cũng đậu tại đây rồi lên trạm thuế giao dịch với người Thượng. Từ đây trở xuống, sông rộng nước sâu, nước ngọt trong veo là thứ nước có tiếng tốt nhất thành Gia Định để dùng gội đầu hay pha trà, dù nước suối Trung Linh ở Kim Sơn hay Bạch Hạc ở Ba Lăng (Trung Quốc) cũng không hơn được”.

Sách cũ còn chép lại: Kim Sơn - Trung Linh tức là suối Trung Linh ở Kim Sơn, nước rất ngon ngọt, nay ở phía tây bắc H.Trấn Giang, tỉnh Giang Tô. Còn Ba Lăng - Bạch Hạc tức suối Bạch Hạc ở Ba Lăng vùng Tây Bắc huyện thành Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam, nước trong ngọt nổi tiếng, nấu trà rất ngon…

Mà Đồng Nai trong chừng mực nào đó, trước đây được hiểu là vùng miền Đông nói chung.

Còn về thức ăn, gạo ở H.Cần Đước là ngon nhất. Ở Long An có hàng chục loại gạo bắt đầu bằng từ nàng: nàng chò, nàng co, nàng hương, nàng minh, nàng quất, nàng rẫy, nàng rừng, nàng sóc, nàng thơm, nàng tri… Trong các loại lúa trên thì nàng thơm ở chợ Đào là nổi tiếng nhất. Chợ Đào là một chợ nhỏ nằm bên con kênh đào ăn thông với H.Cần Đước (tỉnh Long An)…

Bây giờ, nhiều người không còn mấy ấn tượng với “nước Đồng Nai” nữa mà câu nói trên thiên về gạo chợ Đào thôi. Phải chăng nước Đồng Nai không còn là một đặc sản nữa?

* Nhớ một thời đi thồ nước

Hồi nhỏ, tôi cùng gia đình sống ở Đồng Nai. Nơi đó khá xa sông Đồng Nai nên trong suy nghĩ của tôi, “nước Đồng Nai” có thể chỉ nước nói chung, chứ không nhất thiết là nước sông. Nhưng quả thật, nước giếng Đồng Nai rất trong, ngọt và mát. Các mạch nước ngầm nằm sâu dưới các tầng đá cổ, các lớp đất bazan nên có sự tinh khiết…

Nhưng điều làm tôi nhớ nhất là sự khan hiếm nước vào mùa khô. Ở vùng cao nguyên, trừ những chỗ gần sông, gần suối, còn lại thì rất khó tìm được nguồn nước sạch. Tôi có những người bà con, ngày trước vì quá khó khăn trong việc tìm nguồn nước sinh hoạt (chưa nói đến nước để trồng trọt, chăn nuôi), đã phải nhiều lần dời nhà đến những khu vực dễ lấy nước hơn… Có người bí quá phải lấy nước từ các vũng đọng ở đường be (do là đường đất nên xe máy cày, xe tải chở gỗ, hàng hóa đi qua thì để lại các rãnh lớn, mưa xuống có nước đọng), đem về lắng hoặc lọc xài đỡ…

Tôi vẫn nhớ như in những buổi theo người lớn đi thồ nước ở các bàu nước. Bàu là cái đầm, cái hồ nhỏ, vốn là một chỗ trũng sâu xuống, dưới đáy có thể có một số mạch nước ngầm. Dù sao thì bàu cũng là một dạng ao tù. Mùa nắng, những người quanh vùng cùng đến đây để gánh nước, thồ nước, tắm giặt. Nhiều người nhảy ùm xuống làn nước mát lạnh để vùng vẫy, trong khi nhiều người khác xách nước lên bờ để giặt đồ hoặc tắm. Nước đó cũng được mang về nhà làm nước nấu ăn… Hồi nhỏ, tôi thấy bình thường nhưng bây giờ nghĩ lại quả là mất vệ sinh!

Ở những nơi không có bàu, người ta phải đến các giếng đào để lấy nước. Một cái giếng thường có miệng rộng từ 1 1,5m, sâu từ 20 30m. Thành giếng được ốp các hòn đá; trên miệng có bắc những thanh gỗ để gắn một trục quay nước và làm chỗ đứng chân. Nhìn xuống đáy giếng sâu hoắm, tôi thường rùng mình… Đào được một cái giếng quả là kỳ công bởi phải vừa đào bới đất, vừa đưa những hòn đá lên trên; nhiều khi phải dùng thuốc nổ để đánh vỡ những tảng đá lớn… Hồi đó, chỉ những nhà khá giả mới có giếng…

Nhưng đi lấy nước cũng là việc kỳ công. Vào buổi sáng sớm hoặc cuối ngày, thường có đông người đến lấy nước nên phải xếp hàng chờ đợi để rồi phải vất vả quay từng thùng nước cho vào các thùng phuy (loại 120 lít) hoặc các can nhựa (loại 30 lít) rồi đẩy xe đạp hoặc xe thồ về nhà. Có người còn phải gánh. Để đỡ phải mang nước đi lại, nhiều người mang quần áo đến giặt tại chỗ.

Từ hồi nhỏ, tôi đã theo người lớn đi lấy nước. Lâu lâu tham gia quay nước vài cái thì đã vã mồ hôi, thế nào cũng xin nửa thùng nước để xối ào một cái và tận hưởng làn nước mát thấm vào da thịt. Chưa biết đẩy xe thồ thì đi “tăng bo”, đẩy phía sau khi lên dốc hoặc kéo lại khi xuống dốc. Lớn một chút thì “cầm tài”, chân trần phăm phăm trên những con đường đầy đá sỏi. Về đến nhà, từng ca nước đều quý báu vì bao nhiêu giọt nước là bấy nhiêu giọt mồ hôi… Ấy vậy mà có hôm thồ được nửa đường thì trời mưa to, tôi phải đành xả bỏ cả xe nước để đẩy xe không về. Hôm khác, đi nửa đường thì càng xe bị gãy, xe thồ bị ngã, nước đổ lênh láng, về đến nhà, ba tôi cứ xuýt xoa, “may mà con không bị sao”…

Bây giờ quê tôi không còn những giếng đào kiểu đó nữa. Cũng không còn ai đi đẩy từng thùng nước. Ở những trục đường chính, nước máy đã đến tận nhà; trong rẫy thì hầu như nhà nào cũng có giếng khoan, bơm bằng máy nổ hoặc bằng điện. Tệ lắm cũng đã chở nước bằng xe máy, đổi từ các “cây nước” công cộng.

Tôi hay kể chuyện lấy nước hồi nhỏ để nhắc các con tôi phải luôn tiết kiệm nước! Vì mưa nắng bây giờ thất thường hơn, nhu cầu nước ngày càng lớn hơn mà nước ngọt nói chung, nước Đồng Nai nói riêng thì có hạn…        

Nguyễn Minh Hải

Tin xem nhiều