Báo Đồng Nai điện tử
En

Trường Sa đi chẳng tiếc đời xanh

09:07, 20/07/2014

Tháng 7 về, cả nước tri ân tưởng vọng những người con ưu tú đã ngã xuống vì sự bình yên của đất nước. Trong dòng mạch tri ân ấy, không thể không nhắc tới 64 liệt sĩ đã ngã xuống trong trận hải chiến Trường Sa ngày 14-3-1988.

Tháng 7 về, cả nước tri ân tưởng vọng những người con ưu tú đã ngã xuống vì sự bình yên của đất nước. Trong dòng mạch tri ân ấy, không thể không nhắc tới 64 liệt sĩ đã ngã xuống trong trận hải chiến Trường Sa ngày 14-3-1988. Các anh đã hy sinh cho Trường Sa xanh mãi, để 90 triệu dân đất Việt luôn tự hào về các anh...

Chiến sĩ Nhà giàn DK1 chắc tay súng canh giữ  biển, đảo của Tổ quốc.
Chiến sĩ Nhà giàn DK1 chắc tay súng canh giữ biển, đảo của Tổ quốc.

Đầu tháng 3-1988, sau khi chiếm giữ trái phép 5 đảo thuộc quần đảo Trường Sa (gồm các đảo: Chữ Thập, Châu Viên, Huy Gơ, Ga Ven và Xu Bi) của Việt Nam, Trung Quốc tiếp tục dã tâm chiếm các đảo: Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao với mục đích kiểm soát cả khu vực cụm đảo Sinh Tồn. Trung Quốc đã huy động lực lượng của 2 hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa với 9-12 tàu chiến, 2 tàu hộ vệ pháo, hai tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải LSM, tàu đo đạc và một poong-tông lớn để hỗ trợ.

* Máu nhuộm đỏ dưới chân cờ Tổ quốc

Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Hải quân lệnh cho lực lượng sẵn sàng chiến đấu. Ngày 11-3-1988, tàu HQ-604 xuất phát từ Cam Ranh (tỉnh Khánh Hòa). Đến chiều tối 13-3, tàu đến sát bãi Gạc Ma. Khi tàu vừa thả neo, phía địch đã cho tàu chiến quần đảo xung quanh, bắc loa kêu gọi tàu ta phải nhổ neo.

“Trung tá Trần Đức Thông, Lữ đoàn phó Lữ đoàn 146, tổng chỉ huy đi trên tàu HQ-604 đã kêu gọi đồng đội bình tĩnh, tổ chức cắm cờ khẳng định chủ quyền của Việt Nam. Nhóm cắm cờ do Thiếu úy Trần Văn Phương dẫn đầu đã hoàn thành việc cắm cờ ngay trong đêm” - Thiếu tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Lanh, nguyên chiến sĩ trên tàu HQ-604 trong trận hải chiến Trường Sa 1988, bồi hồi kể lại.

Khoảng 6 giờ ngày 14-3, phía Trung Quốc cho xuồng áp sát bãi Gạc Ma. Lính Trung Quốc lăm le vũ khí tiến vào đảo yêu cầu quân ta hạ cờ. Trước tình thế nguy cấp, Trung tá Thông lệnh cho đồng đội bơi vào đảo hỗ trợ nhóm Thiếu úy Phương giữ cờ. Nguyễn Văn Lanh và 3 chiến sĩ khác lập tức nhảy khỏi tàu, bơi vào đảo Gạc Ma. Lúc đó, có 9 người trên đảo, mọi người cầm tay nhau kết thành vòng tròn, phía trước đối mặt với quân thù, sau lưng là cờ Tổ quốc. “Lính Trung Quốc rất đông. Chúng lăm lăm súng AK, giương lên sáng quắc hăm dọa, còn chúng tôi không có vũ khí gì ngoài cuốc chim công binh và xà beng đào san hô” - Thiếu tá Lanh kể lại.

Sau trận giáp lá cà, phía Trung Quốc rút quân và cho tàu nã súng đại liên, pháo tầm xa về phía các chiến sĩ giữ cờ trên rạn đá san hô Gạc Ma. Cùng lúc đó, tàu chiến Trung Quốc dùng pháo bắn dồn dập vào tàu HQ-604, đồng thời cho các xuồng nhôm chạy quanh tàu HQ-604 chĩa súng vào tàu và đe dọa, buộc tàu của ta phải rời khỏi khu vực. Ngay sau đó, hàng loạt đạn cối 100 ly từ tàu chiến Trung Quốc bắn xối xả về phía tàu HQ-604. Tàu HQ-604 thủng nhiều chỗ bên mạn và đài chỉ  huy, 3 chiến sĩ hy sinh tại chỗ, nhiều chiến sĩ cũng tử thương sau đó.

Thuyền trưởng Vũ Phi Trừ bị trúng đạn khi đang vào hầm tàu, Lữ đoàn phó Trần Đức Thông bị đạn bắn ở đầu khi đang chỉ huy chiến đấu. Tàu HQ-604 chìm nhanh xuống biển mang theo thi thể của thuyền trưởng cùng nhiều chiến sĩ trên tàu. Một số chiến sĩ nhảy ra khỏi tàu bơi trên biển liền bị xuồng nhôm của Trung Quốc vây ép chạy quanh, dùng súng bắn vào các chiến sĩ. Có chiến sĩ bám vào thành tàu liền bị lính Trung Quốc dùng móc câu móc vào người dìm xuống biển.

* Mãi mãi tuổi 20

Chúng tôi tìm đến nhà cựu chiến binh Trung tá Nguyễn Viết Chức, nguyên thuyền trưởng tàu HQ-07, Lữ đoàn 171 Hải quân, để nghe ông kể về trận chiến Gạc Ma cách đây 26 năm. Ông Chức đã làm nhiệm vụ ở Trường Sa vào những năm 1987-1990 và sau trận hải chiến Trường Sa, ông đã tham gia viết sử, kể về những chiến sĩ hy sinh trên đảo Gạc Ma ngày ấy.

“64 liệt sĩ hy sinh trong trận hải chiến Trường Sa ngày ấy luôn nhắc nhở chúng ta một điều: phải luôn nêu cao cảnh giác. Máu xương các anh đổ xuống hôm qua là bài học để hôm nay chúng ta giữ biển, đảo bằng sức mạnh dân tộc. 64 liệt sĩ đã ngã xuống, mãi mãi bất tử trong lòng nhân dân” - Trung tá, cựu binh Hải quân Hoàng Văn Thể, nguyên thuyền trưởng tàu HQ-11, Lữ đoàn 171 Hải quân anh hùng, nói.

Ông  Chức trầm buồn kể lại: “Những người lính đi đảo năm ấy đến từ nhiều tỉnh khác nhau, rất trẻ và phần nhiều chưa có người yêu, số đã có vợ thì chưa có con. Có người lên đường với lời hẹn sau khi đi Trường Sa về sẽ cưới vợ, sinh con, nhưng những điều đó đã không xảy ra. Họ đã đi và mãi mãi không về…”.

Trong số 64 liệt sĩ hy sinh anh dũng trong trận hải chiến tại đảo Gạc Ma, có đến 46 liệt sĩ đeo quân hàm binh nhất, binh nhì, tất cả đều ở độ tuổi đôi mươi. Không ai ngờ, những chàng trai tuổi xuân còn phơi phới, xung phong lên đường nhập ngũ giữa thời bình, lại có một ngày vĩnh viễn nằm lại trong lòng biển, dệt nên huyền thoại nơi vùng đảo thiêng liêng mang tên Gạc Ma.

* Nước mắt nhòa theo sóng quê hương

Chiều cuối tuần, trên tàu HQ-936 của Vùng 4 Hải quân, đoàn công tác chúng tôi hải trình đến vùng biển, đảo Cô Lin - Gạc Ma làm lễ tưởng niệm các liệt sĩ. Chẳng ai bảo ai, tự trong tim mỗi người dâng tràn xúc động. Chúng tôi nhìn về phía đảo Gạc Ma xót xa, nhiều người rơm rớm nước mắt.

Chúng tôi xếp thành hàng lặng lẽ trên boong tàu, lắng lòng trong tiếng nhạc Hồn tử sĩ thiết tha. Nhiều người trong hàng quân lấy khăn lau nước mắt. Những chiến sĩ hải quân đầy bản lĩnh cũng không cầm lòng trước lời điếu của trưởng đoàn công tác thẳm sâu vào sóng biển: “Đảo Trường Sa là của Việt Nam. Nơi đây, bao người con ưu tú của Tổ quốc đã chiến đấu anh dũng, hy sinh để giành giật từng tấc đảo và bảo vệ những phiến đá kiến tạo qua hàng ngàn năm lịch sử được cha ông ta giữ gìn từ lâu đời. Không để kẻ thù cướp đảo thân yêu, hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh đã giằng co quyết liệt, cắm cờ Tổ quốc lên đảo để khẳng định cột mốc chủ quyền. Lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân thêm một lần nữa lại tô thắm máu đào của 64 liệt sĩ. Tiếng nói của anh hùng liệt sĩ Trần Văn Phương sẽ mãi khắc sâu trong tâm khảm của triệu triệu người dân Việt Nam, từ thế hệ này qua thế hệ khác: “Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân”. Tiếng nói ấy không chỉ thể hiện khí phách anh hùng, mà còn là tư thế của người làm chủ thực sự biển, đảo dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Đó là một tuyên ngôn bất tử về Trường Sa, tuyên ngôn của thế hệ trẻ hôm nay không sợ hy sinh gian khổ, quyết đem tính mạng của mình bảo vệ từng tấc đất, sải sóng thiêng liêng của Tổ quốc”.

26 năm qua, xương cốt của 64 liệt sĩ vẫn nằm dưới đáy biển bên những rặng san hô, nhưng tên tuổi các anh đã tạc vào lịch sử dân tộc và mãi mãi được thế hệ người Việt Nam tưởng nhớ. 26 năm, thời gian đủ dài để nhuộm trắng những mái đầu xanh, những người mẹ đã không thể chờ đợi để tìm thấy con mình nơi sóng nước, những người cha đã lặng lẽ về thế giới bên kia. Song trong tâm khảm của những người thân và đồng đội thì không thể nguôi ngoai, sự hy sinh của các anh đã trở thành bất tử.

Mai Thắng

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tin xem nhiều