Báo Đồng Nai điện tử
En

Một thời, thương cảng Cù lao Phố

09:11, 12/11/2008

Tên gọi Cù lao Phố dân dã là một danh xưng dễ quên, dễ nhớ về một địa điểm được mệnh danh "chốn đô hội" của xứ Biên Hòa.

Tên gọi Cù lao Phố dân dã là một danh xưng dễ quên, dễ nhớ về một địa điểm được mệnh danh "chốn đô hội" của xứ Biên Hòa.

 

Nhóm người Hoa của Trần Thượng Xuyên tạo dựng đã có công lớn trong việc tạo dựng thương cảng ở cù lao Phố. Theo sử liệu, năm 1679, được sự chấp thuận của chúa Nguyễn, nhóm người Hoa do Trần Thượng Xuyên đến sinh sống ở xứ Bàn Lân (Biên Hòa ngày nay). Trần Thượng Xuyên thấy địa hình này có ưu thế cho việc phát triển nông nghiệp, lại thuận tiện giao thông thủy, bộ; có lợi cho việc buôn bán nên đã xây dựng nơi đây thành một thương cảng. Đường xá ở Cù lao Phố được mở mang, phố xá được tạo dựng, chợ búa được thành lập, hàng hóa dồi dào, thường xuyên có nhiều tàu nước ngoài đến buôn bán.

 

Cảnh phồn vinh, sầm uất của cảng thị cù lao Phố được sử sách ghi chép: "Nông Nại đại phố ở đầu phía Tây Cù lao Đại phố được kiến thiết phố xá, mái ngói tường vôi, lầu cao quán rộng, dọc theo bờ sông liền lạc tới năm dặm. Chia vạch làm ba đường phố: đường phố lớn lót đá trắng, đường phố ngang lót đá ong, phố nhỏ lót đá xanh, đường rộng bằng phẳng" hay "phố chợ thương mại, giao thông với người Tàu, người Nhật Bản, Tây Dương, Đồ Bà (Java). Kẻ buôn tụ tập, ghe thuyền lớn ở biển và ở sông đều neo liên tiếp nhau, ấy là một chỗ đại đô hội...".

 

Cù lao Phố trở thành một trung tâm thương mại và giao dịch vào loại nhất của Nam bộ thời bấy giờ nhờ có ưu thế của một cảng sông sâu trong nội địa, đầu mối tập trung nhiều loại hàng hóa. Vùng cù lao Phố cũng là nơi hình thành sớm các ngành nghề thủ công: dệt chiếu, làm tơ lụa, làm gốm, mộc, đúc đồng, làm pháo hay chăn nuôi tằm, trồng mía, nấu đường... Ngoài nguồn hàng cung cấp tại chỗ, thương cảng cù lao Phố còn tiếp nhận các nguồn hàng hóa từ nơi khác trên vùng Đồng Nai lúc bấy giờ như Phước Thiền, Bến Gỗ, Bến Cá...

 

Thế nhưng, kiến trúc phong quang của Cù lao Phố bị ảnh hưởng và tàn phá nặng nề qua cuộc bạo loạn của thương nhân người Phước Kiến là Lý Văn Quang vào năm 1747; trong cuộc tranh chấp giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Đặc biệt, vào năm 1776, cù lao Phố  bị tàn phá "... từ đấy chỗ nầy biến thành gò hoang, sau khi trung hưng, người ta tuy có trở về, nhưng dân số không được một phần trăm lúc trước". Hầu hết đền, chùa, đình, miếu và phố xá ở cù lao Phố thời còn là "xứ đô hội" đã bị thời gian, chiến tranh chôn vùi vào quá khứ.

 

Với vị thế của một thương cảng, sầm uất, Cù lao Phố còn là nơi được xây dựng những kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng đồ sộ lúc bấy giờ. Chắc chắn, những công trình kiến trúc được xây dựng trong thời kỳ lịch sử bấy giờ không chỉ đáp ứng cho nhu cầu tâm linh của cư dân tại chỗ mà còn cho các khách của vùng lân cận, vùng xa đến chiêm ngưỡng hay trong dịp mua bán hàng hóa. Hiếm có vùng đất nào với đơn vị hành chánh cấp xã ở Nam bộ lại có mật độ nhiều cơ sở tín ngưỡng như trên vùng đất này. Cù lao Phố có đến 5 ngôi chùa, 3 tịnh xá và 11 ngôi đình, 1 biểu tòa Cao Đài, nhiều ngôi miếu... Trong đó, có 4 di tích được nhà nước xếp hạng. Gắn liền với các thiết chế tín ngưỡng này là những di sản văn hóa phi vật thể vô cùng phong phú của những thế hệ tiền nhân thuở đầu khai phá vẫn còn được bảo lưu cho đến ngày nay.

 

Những câu chuyện tích liên quan đến những danh lam cổ kính, mái đình rêu phong, miếu thờ...  là những bài học đối nhân xử thế nơi vùng đất mới. Chắc hẳn, một thời náo nhiệt của chốn đô thị, vùng đất này phát triển mạnh về kinh tế. Có lẽ để giữ cho cuộc sống hài hòa, cái tâm của con người luôn hướng thiện, mà vùng đất cù lao Phố này xuất hiện nhiều câu chuyện mang ý nghĩa sâu sắc về đạo làm người. Nội dung nhiều chuyện tích gắn với những nhân vật đời thường hay chi tiết hoang đường thì nó cũng gắn với từng di tích cụ thể mà mỗi khi nhắc đến cũng khiến cho con người suy nghĩ. Chùa Đại Giác lưu truyền câu chuyện tình nơi cửa Phật đầy bi cảm giữa một hoàng cô với nhà sư. Sức mạnh của tình yêu con người, sức mạnh của niềm tin Phật pháp khiến con người hướng thiện. Chùa Thủ Huồng gắn với nhân vật Võ Thủ Hoằng vốn gian tham, làm bao điều ác, nhưng cuối đời nhận ra lẽ phải, tích đức xóa được án tội, trở thành một vị vua trong kiếp luân hồi. Chùa Hoàng Ân gắn với tích nhà sư cưu mang đôi vợ chồng trẻ mang bệnh nan y. Đối nhân xử thế nghĩa tình không chỉ giúp cho con người đời sau, mà còn tạo niềm tin cho con người trong cuộc sống đời thường. Miếu Quan Đế tương truyền sự linh ứng nhắc cho con người theo nghĩa khí chính trực của một bậc quân thần được tôn thờ. Vàm nước trước đình Bình Kính với huyền tích đôi cá thần đêm đêm quẫy nước nhớ ơn người có công với làng xã huống chi con người lại không biết tri ân... Bao câu chuyện với những chi tiết dẫu có hoang đường cũng đều gợi cho con người biết sống với nhau sao cho vẹn nghĩa trọn tình. Đó có lẽ cũng là điều mà bao thế hệ tiền nhân trên vùng Cù lao Phố này như gởi đến cho những người tiếp tục sinh sống trên mảnh đất này.

Phan Duyên Tâm

Tin xem nhiều